Thông tin y tế trên các báo ngày 9/4/2021
Dưới đây là một số thông tin y tế đáng chú ý trên các báo ra ngày 09/04/2021, mời quý đọc giả đón đọc:
Quy trình tiêm vắc-xin ngừa COVID-19 ở Việt Nam khác biệt so với thế giới
Số liệu ghi nhận phản ứng sau tiêm vắc-xin COVID-19 AstraZeneca tại Việt Nam trong 1 tháng qua thấp tương đương so với những số liệu do nhà sản xuất cung cấp. Thông tin trên được Bộ Y tế cho hay chiều 8/4.
Chưa phát hiện trường hợp nào bị đông máu
Tính đến ngày 8/4, sau một tháng triển khai tiêm chủng vắc-xin phòng COVID-19 đã có hơn 55.000 người tiêm an toàn. Trong quá trình tiêm, hệ thống giám sát cũng ghi nhận có khoảng một phần nghìn trường hợp có phản ứng quá mẫn sau tiêm, được xử trí đúng theo quy định, sức khỏe của những người này đều đã ổn định, trở lại đi làm sau 1-2 ngày theo dõi, điều trị tại cơ sở y tế.
Vắc-xin này đã được cấp phép sử dụng tại hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới và là 1 trong 3 vắc-xin được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thông qua chấp thuận sử dụng trong trường hợp khẩn cấp vào ngày 15/2/2021.
Trong quá trình tiêm vắc-xin AstraZeneca tại Việt Nam, hệ thống giám sát tiêm chủng đã ghi nhận khoảng 33% các trường hợp phản ứng nhẹ thông thường như đau, đỏ tại chỗ tiêm, mệt mỏi, sốt nhẹ, đau đầu, buồn nôn. Các dấu hiệu này tự khỏi trong 1-2 ngày sau tiêm và người được tiêm không cần điều trị gì vì đây là dấu hiệu thường gặp phải không chỉ tiêm vắc-xin phòng COVID-19 mà còn cả ở trường hợp tiêm các loại vắc-xin phòng ngừa bệnh truyền nhiễm khác. Những số liệu ghi nhận phản ứng sau tiêm vắc-xin phòng COVID-19 của AstraZeneca tại Việt Nam trong 1 tháng qua thấp tương đương so với những số liệu do nhà sản xuất cung cấp. Đặc biệt, đến nay Việt Nam chưa ghi nhận bất cứ trường hợp nào bị đông máu và huyết khối xảy ra sau khi tiêm chủng.
Quy trình tiêm vắc-xin khác biệt so với thế giới
Với phương châm “Tiêm đến đâu an toàn đến đó”, quy trình tiêm chủng vắc-xin phòng COVID-19 tại Việt Nam được triển khai bài bản và có sự khác biệt so với các nước khác trên thế giới, kể cả các nước tiên tiến. Đó là công tác bảo đảm an toàn tiêm chủng vắc-xin phòng COVID-19 tại Việt Nam luôn đặt lên hàng đầu; tuân thủ chặt chẽ từng khâu, từng bước tại tất cả các cơ sở tiêm chủng.
Cụ thể, cơ sở tiêm chủng vắc-xin phòng COVID-19 phải bảo đảm về cơ sở vật chất, trang thiết bị và nhân lực; thực hiện khám sàng lọc và tư vấn trước tiêm chủng, tổ chức buổi tiêm chủng an toàn theo hướng dẫn của Bộ Y tế; người đi tiêm vắc-xin phải ở lại điểm tiêm chủng ít nhất 30 phút sau khi tiêm để theo dõi tình hình sức khoẻ; được hướng dẫn tiếp tục theo dõi ở nhà ít nhất 24 giờ sau khi tiêm; công tác cấp cứu đề phòng những trường hợp có phản ứng nặng sau tiêm chủng luôn sẵn sàng, nhằm bảo đảm an toàn tối đa cho người được tiêm chủng.
Đồng thời với quá trình tiêm chủng, thông tin tiêm chủng của người đi tiêm được cập nhật, lưu trữ đầy đủ, hệ thống trong phần mềm hồ sơ sức khỏe điện tử, tiến tới quản lý và cấp chứng nhận điện tử tiêm chủng vắc-xin phòng COVID-19 tại Việt Nam, kết nối với thế giới.
Bộ Y tế cho biết, theo khuyến cáo của Cơ quan Quản lý Dược phẩm châu Âu (EMA) và WHO, trường hợp xuất hiện tình trạng giảm tiểu cầu và huyết khối tĩnh mạch có liên quan đến tiêm vắc-xin phòng COVID-19 của AstraZeneca rất hiếm gặp. Trong khi đó lợi ích của việc tiêm vắc-xin phòng COVID-19 của AstraZeneca mang lại trong việc bảo vệ mỗi cá nhân và cả cộng đồng trước COVID-19 lớn hơn rất nhiều so với những rủi ro rất hiếm gặp nói trên. Do vậy, WHO khuyến cáo các nước tiếp tục triển khai tiêm vắc-xin phòng chống COVID-19 của AstraZeneca để tăng tỷ lệ miễn dịch trong cộng đồng và ngăn chặn dịch bệnh bùng phát.
(tienphong.vn)
Phát hiện 1 bệnh nhân nhập cảnh mắc Covid-19
Sáng 9/4, Bộ Y tế cho biết, nước ta ghi nhận thêm 1 ca mắc mới (BN2669) được cách ly ngay sau khi nhập cảnh tại Bắc Ninh.
Cụ thể:
Ca bệnh 2669 (BN2669): Bệnh nhân nam, 55 tuổi, công dân Việt Nam, địa chỉ tại huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Ngày 31/3/2021, bệnh nhân từ Angola nhập cảnh Sân bay Vân Đồn trên chuyến bay VN88 và được cách ly ngay sau khi nhập cảnh tại tỉnh Bắc Ninh. Kết quả xét nghiệm lần 2 ngày 08/4/2021 dương tính với SARS-CoV-2. Hiện bệnh nhân được cách ly, điều trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Ninh.
Như vậy, tính đến nay, nước ta có 2669 người mắc Covid-19, 2.429 ca điều trị khỏi, 35 người tử vong.
Cũng theo Bộ Y tế, nước ta có thêm 1.208 người được tiêm chủng vaccine Covid-19 trong ngày 08/04/2021
Tính đến 16 giờ ngày 08/04/2021, tổng cộng đã thực hiện tiêm vaccine phòng Covid-19 tại 19 tỉnh/TP cho 56.359 người là cán bộ, nhân viên y tế đang trực tiếp điều trị bệnh nhân Covid-19, các nhân viên y tế thực hiện các nhiệm vụ như lấy mẫu bệnh phẩm, xét nghiệm, truy vết, thành viên các tổ Covid-19 cộng đồng và Ban Chỉ đạo phòng chống dịch các địa phương.
Chi tiết 1.208 người được tiêm tại 3 tỉnh/TP trong ngày 8/4/2021 như sau:
- Hà Nội: 148 người
- Hải Phòng: 109 người
- TP Hồ Chí Minh: 951 người
Ngày 8/4/2021, UBND tỉnh Quảng Ninh đã phê duyệt kế hoạch tổng thể triển khai tiêm vaccine phòng Covid-19 cho các đối tượng theo Nghị quyết 21/NQ-CP của Chính phủ.
Trong tuần tới tỉnh Quảng Ninh sẽ bắt đầu triển khai tiêm vaccine này.
(kinhtedothi.vn)
Phác đồ chống lao mới BPaL: Bước đột phá điều trị cho bệnh nhân mắc vi khuẩn lao siêu kháng
Việt Nam hiện đang triển khai thí điểm phác đồ điều trị lao BPaL với 567 bệnh nhân trong thời gian ba năm tại ba địa phương gồm Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và Cần Thơ. PGS, TS Nguyễn Viết Nhung, Giám đốc BV Phổi Trung ương, Chủ nhiệm Chương trình Chống lao quốc gia nhấn mạnh, phác đồ mới này là bước đột phá trong điều trị cho bệnh nhân mắc vi khuẩn lao đa kháng, siêu kháng.
Số bệnh nhân lao đa kháng thuốc còn cao
Phóng viên: Thưa PGS, TS Nguyễn Viết Nhung, Việt Nam đặt ra mục tiêu chấm dứt bệnh lao vào năm 2030, tuy nhiên gánh nặng bệnh tật lao vẫn còn cao, theo ông, nguyên nhân vì đâu?
PGS, TS Nguyễn Viết Nhung: Việt Nam là một trong những nước có gánh nặng lao và lao kháng thuốc cao. Tình trạng lao đa kháng, siêu đa kháng là một thách thức lớn trong công tác điều trị.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng lao đa kháng, siêu kháng. Một là, có thể người mới phát hiện lao, khi uống thuốc thấy đỡ nhanh trong hai tuần hết triệu chứng nên nghĩ bản thân đã khỏi bệnh và bỏ thuốc. Bên cạnh đó, vì lượng thuốc nhiều, có người bỏ đi một vài viên dẫn tới không đủ liều điều trị. Thứ ba, để hấp thu tốt, phải uống thuốc khi dạ dày rỗng nhưng nhiều người lại uống vào lúc no.
Đặc biệt, nhiều người không tuân thủ theo đúng hướng dẫn, dẫn tới vi khuẩn sẽ kháng thuốc. Khi chủng lao kháng thuốc lây sang người khác thì người bị lây cũng phải điều trị phác đồ đa kháng và nếu điều trị bỏ dở, virus sẽ trở thành siêu kháng với các loại thuốc.
Do đó, ngay từ ban đầu, người bệnh phải điều trị thật đúng về liều điều trị mới có thể chữa khỏi. Mặc dù người bệnh hết triệu chứng cũng phải tuân theo phác đồ với ít nhất là sáu tháng.
Phóng viên: Hiện nay, tỷ lệ lao đa kháng, siêu kháng tại Việt Nam có cao không thưa ông?
PGS, TS Nguyễn Viết Nhung: Trước đây, tỷ lệ bệnh nhân mới được phát hiện và điều trị lần đầu có tỷ lệ kháng thuốc là 4% và hiện giảm còn 3%. Số bệnh nhân lao đa kháng thuốc từng điều trị trước đây là 24%, giờ chỉ còn 17%.
Kết quả tích cực này là do Việt Nam triển khai điều trị lao đa kháng thuốc từ năm 2009, tăng dần bao phủ điều trị các trường hợp mới được phát hiện. Trong thời gian hai năm gần đây, chúng ta đã đạt hiệu quả điều trị lên tới 85% với thuốc phác đồ ngắn hạn, thuốc mới. Những kết quả tốt này là do chúng ta có can thiệp tích cực, quản lý tốt, với sự hỗ trợ của tình nguyện viên, người giám sát trực tiếp.
Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam phát hiện có 4.800 bệnh nhân lao đa kháng thuốc, siêu kháng, nhưng chúng ta đã điều trị được cho gần bốn nghìn người. Năm nay, chúng ta đặt chỉ tiêu cao hơn số bệnh nhân cần điều trị để giảm nguồn lây lao, cải thiện tình hình lao kháng thuốc.
Bước tiến mới trong điều trị lao đa kháng, siêu đa kháng
Phóng viên: Việt Nam hiện đang thí điểm triển khai phác đồ điều trị lao mới BPaL. Điều này có ý nghĩa như thế nào với bệnh nhân lao?
PGS, TS Nguyễn Viết Nhung: Việt Nam hiện đang triển khai điều trị lao đa kháng hiện với phác đồ ngắn hạn là 9 -12 tháng với hơn năm loại thuốc và đã áp dụng thường quy.
Đầu năm 2021, Việt Nam bước một bước tiến nữa, dùng phác đồ thuốc mới BPaL điều trị ngắn hạn trong 6-9 tháng với người lao đa kháng, siêu kháng thuốc. Những trường hợp tiền siêu kháng, áp dụng phác đồ này là bước đột phá rất lớn.
Theo WHO, kết quả điều trị phác đồ mới này hiệu quả lên tới 90% với lao siêu kháng. Việt Nam chúng ta đặt mục tiêu ít nhất hơn 85% bệnh nhân khỏi bệnh.
Phóng viên: Xin ông cho biết kế hoạch triển khai thí điểm và hiệu quả của dự án này như thế nào?
PGS, TS Nguyễn Viết Nhung: Việt Nam là một trong những nước tiên phong áp dụng phác đồ mới BPaL được WHO khuyến cáo và chúng ta sẽ triển khai một cách phù hợp, đạt hiệu quả tối ưu nhất.
Chúng tôi triển khai nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng không cần đối chứng (giai đoạn 3B), thu nhận hơn 500 bệnh nhân điều trị. Phác đồ mới này sẽ ba loại thuốc mới, trong đó có hai thuốc hoàn toàn mới.
Nếu tiến triển thuận lợi, bệnh nhân chỉ cần sáu tháng khỏi bệnh. Đây là cơ hội lớn cho người không may mắc phải vi khuẩn lao siêu kháng, đặc biệt đối với trường hợp đã điều trị lao đã thất bại từ 1-2 lần, thậm chí từng thất bại điều trị tới 4-5 lần.
Chúng tôi bước đầu triển khai điều trị thí điểm cho 100 bệnh nhân, sau đó mở rộng tiếp. Nếu thấy lợi ích của phác đồ mới, chúng tôi sẽ triển khai mở rộng càng sớm càng tốt chứ không thử nghiệm lâu dài, ảnh hưởng cơ hội sống của hàng nghìn người.
Sau ba tỉnh, thành phố làm tốt, chúng tôi sẽ mở rộng chương trình bằng hai cách: một là, người bệnh sẽ đến tại nơi điều trị ban đầu sau đó chuyển cho bệnh viện tỉnh quản lý và hai là tăng cường thêm năng lực cho cơ sở điều trị.
Phóng viên: Chúng ta gặp những thuận lợi và thách thức nào trước việc triển khai phác đồ điều trị mới này?
PGS, TS Nguyễn Viết Nhung: Việt Nam là nước có nhiều kinh nghiệm trong điều trị lao, áp dụng những phác đồ điều trị mới. Thách thức đầu tiên là các loại thuốc cho phác đồ điều trị BPaL đều mới, nhưng chúng ta cũng đã giải quyết được khó khăn đầu tiên là có nguồn thuốc về Việt Nam. Yêu cầu đặt ra là người bệnh phải tuân thủ chặt chẽ điều trị, các cơ sở y tế điều trị phải giám sát bệnh nhân tuân thủ 100% liều lượng thuốc.
Về giải quyết tác dụng phụ không mong muốn, qua nghiên cứu cho thấy, chỉ có 10% số bệnh nhân điều trị có tác dụng phụ trung bình và 10% phản ứng nặng. Những điều này Việt Nam cũng đã có kinh nghiệm điều trị nên không phải là vấn đề lớn. Tôi hoàn toàn tin tưởng việc áp dụng phác đồ được triển khai nhanh chóng và sẽ thành công.
Tới đây, chúng ta cũng sẽ áp dụng điều trị lao không phải kháng thuốc với phác đồ bốn tháng. Thử nghiệm lâm sàng này đang được tiến hành tại Việt Nam và một số nơi trên thế giới. Chúng ta chỉ chờ đợi khuyến cáo của WHO để triển khai.
Việc điều trị lao rất quan trọng, nên khi có triệu chứng nghi lao, người bệnh nên đi khám và phát hiện sớm, việc điều trị đơn giản hơn.
Tôi cũng muốn nhấn mạnh, hiện nay, phác đồ mới này người bệnh được miễn phí 100% thuốc điều trị nên người mắc lao cần tiếp cận Chương trình Chống lao quốc gia, đừng tìm cách mua thuốc ngoài vừa đắt lại không hiệu quả.
Từ nay tới mục tiêu chấm dứt lao vào năm 2030 chỉ còn chín năm nữa. Việc gì chúng ta cần làm ngay thì càng phải triển khai sớm để tránh khỏi hàng nghìn cái chết đáng tiếc do không điều trị lao.
Xin cảm ơn ông!
(nhandan.com.vn)
Hạnh phúc bất ngờ của cặp vợ chồng mắc bệnh phong
Nửa đời người sống trong cô đơn, đau khổ vì bệnh tật, anh Vị, chị Và chưa từng dám mơ tới hạnh phúc. Nhưng họ đã tìm thấy nhau, trở thành những mảnh ghép hoàn hảo, giúp nhau có cuộc sống ý nghĩa.
- Đây là ảnh hôm đi đón dâu. Mọi người đi đông thế này cơ mà.
- Lúc này là ăn cỗ cưới. Cả thảy có 10 mâm cỗ nhỏ.
- …
Anh Vũ Văn Vị (sinh năm 1971, quê Sóc Sơn, Hà Nội) đưa đôi tay co quắp, vui vẻ chỉ về phía những bức ảnh vợ chồng anh chụp trong ngày cưới cách đây 11 năm. Duy có khung ảnh treo tường đã ố màu, bong tróc do để lâu ngày, những ảnh còn lại vẫn nguyên vẹn, được cất cẩn thận trong một cuốn album.
Để tìm đủ số ảnh đã cất kỹ dưới ngăn tủ, anh Vị phải loay hoay khá lâu. Mức thương tật 85% với một bên chân đã mất hẳn khiến người đàn ông khó khăn trong việc di chuyển, hoạt động.
Album ảnh cưới là món quà kỷ niệm vô giá với vợ chồng anh Vị, cùng là bệnh nhân phong lâu năm. Từ ngày đặc biệt năm ấy, cuộc đời anh chị như bước sang một trang mới.
Năm 1979, khi học tiểu học, anh Vị bắt đầu thấy bàn chân xuất hiện các vết nứt nẻ. Chúng lớn dần theo thời gian nhưng không gây đau đớn. Lúc anh đi lại, sỏi, đất cát nhét đầy trong vết nứt. Khi anh lên 10 tuổi, các vết này nứt toác thành từng mảng. Sau đó, tay, chân của anh dần co quắp.
Anh Vị nghỉ học, nhiều năm ròng rã đi khám chữa ở các cơ sở y tế, tuy nhiên không phát hiện ra nguyên nhân. Anh tìm tới các thầy lang, uống thuốc nam mười mấy năm, tình hình vẫn không thuyên giảm.
Đến năm 1993, khi 22 tuổi, anh mới biết mình mắc bệnh phong. Thời điểm này, tay chân của anh đã gần như hỏng. Mùa rét là lúc chàng trai trẻ đau đớn nhất, không thể tự bước đi dù dùng gậy hỗ trợ.
Anh được đưa vào trại phong Quả Cảm (Bắc Ninh) năm 1994, sau đó 2 năm phải cưa một bên chân.
Anh Vị kể, anh sống một mình ở khu điều trị phong trong cảnh “làm không được, ăn cũng không xong”. Chàng trai trẻ khi ấy chỉ nuôi vài con gà để cải thiện bữa ăn, nuôi thêm chú chó bầu bạn cho bớt cô quạnh. Gia đình thi thoảng ghé vào thăm, động viên ít câu rồi lại vội ra về vì còn bộn bề cuộc sống riêng.
Suốt những ngày tháng sau đó, anh Vị tự mình chịu đựng, vượt qua nỗi cô đơn. Anh không dám mơ ước tới một mái ấm nhỏ. “Bệnh nhân phong ai mà không cô đơn. Nhưng ngày ấy tôi nghĩ, hoàn cảnh này, người ta có lấy mình không? Rồi nếu về với nhau rồi, mình có lo được cho người ta hay không?”, anh chia sẻ.
Năm 2010, anh Vị gặp chị Vàng Thị Và (sinh năm 1980, quê Đồng Văn, Hà Giang), người vợ của anh bây giờ. Chị Và người dân tộc Mông, khuôn mặt hiền lành, có chiếc răng khểnh khiến nụ cười duyên hơn. Chị đã sống ở trại phong Phú Bình, Thái Nguyên 7 năm.
Từ khi còn nhỏ, chị Và đã thấy cơ thể rất yếu, hay ho, sốt. Năm chị 12 tuổi, ống chân tự nhiên phồng lên, sau đó, lần lượt các ngón tay cũng cứ thế sưng phồng bất thường, co quắp. Chị đi khám tại bệnh viện, làm các xét nghiệm, bác sĩ kết luận chị mắc bệnh phong và cho thuốc điều trị.
Người phụ nữ ám ảnh khi nghĩ đến tuổi thơ bị người xung quanh xa lánh, mắng chửi vô cớ vì mắc bệnh. Ngày ấy, gia đình nghèo khó, chị mỗi ngày đều phải đi chăn bò, phụ bố mẹ nuôi các em. Nhưng cứ ra đường, chị sẽ bị chửi bới là “đồ hủi”, thậm chí xua đuổi, ném đất đá.
23 tuổi, bệnh trở nặng hơn, chị Và chuyển hẳn vào trại phong ở. Đau đớn vì bệnh tật, nhớ nhà, lại không hiểu tiếng Kinh, chị sống trong khủng hoảng suốt thời gian dài. “Quen với việc tự lo tự liệu, tôi nghĩ không lập gia đình cũng chẳng sao. Bao nhiêu bệnh nhân phong, họ cũng sống như vậy tới cả đời người…”, chị Và tâm sự.
“Nói thế mà hôm đám cưới, cô ấy khóc từ Thái Nguyên về tới đây đấy”, anh Vị thủ thỉ trêu đùa vợ. Một đám cưới như cổ tích là hạnh phúc bất ngờ mà trước đó hai anh chị chưa từng nghĩ tới.
Vợ chồng anh Vị biết nhau năm 2010 qua sự giới thiệu của y tá Nguyễn Thị Xuân ở trại phong Quả Cảm.
Ấn tượng đầu của anh Vị về vợ rất tốt. Còn chị Và thì ngược lại: “Lúc đầu, tôi chỉ thấy anh ấy là một ông già trông thật khó tính. Tôi nghĩ, nhất định sẽ không lấy đâu”. Thế mà, họ yêu nhau lúc nào không biết.
Sau một thời gian tìm hiểu, họ kết hôn, cùng về sống tại Quả Cảm. Đám cưới tổ chức bình dị mà ấm cúng, có đại diện y bác sĩ, bệnh nhân của hai trại phong với 10 mâm cỗ nhỏ. Y tá Xuân là người giúp đỡ tổ chức tất cả nghi thức, cỗ bàn cho hai vợ chồng anh Vị.
Ngôi nhà nhỏ của người đàn ông 39 tuổi từ ấy ấm áp hơn vì có bàn tay phụ nữ vun vén. Anh chị cùng trồng thêm rau, nuôi thêm gà, bên nhau lúc ốm đau, hoạn nạn.
“Cùng hoàn cảnh nên hiểu nhau lắm, những lúc cơ thể đau đớn lại có người cùng tâm sự. Chúng tôi nương tựa vào nhau, bổ khuyết cho nhau. Nhờ có anh, cuộc sống của tôi ý nghĩa hơn”, chị Và chia sẻ.
Sau 8 năm chung sống, anh chị có em bé đầu lòng. Ngày ấy, chị Và thấy cả cơ thể thường xuyên đau nhức, cứ ăn vào lại nôn nao, khó chịu. Vừa đi nạo các vết loét ở chân về, được phát thuốc uống, chị nghĩ có thể do tác dụng phụ của thuốc, tuy nhiên vẫn nhờ chồng đi mua que thử thai.
“Tôi không biết xem que thử thế nào. Nhờ hàng xóm, họ bảo 2 vạch rồi, anh chị có con rồi, hai vợ chồng cứ thế bật khóc”, chị Và xúc động nhớ lại.
Bé Vũ Lê Quang Vinh, con trai của anh chị chào đời ngày 8/7/2018 tại Bệnh viện Sản Nhi Bắc Ninh bằng phương pháp sinh mổ, nặng 2,8 kg. Do là ca sinh rất đặc biệt, hoàn cảnh “chưa từng có” tại bệnh viện, anh chị được các bác sĩ giúp đỡ hoàn toàn chi phí.
Ngay từ nhỏ, Vinh đã rất ngoan, có thể tự ăn, tự chơi. Bé hiểu bố mẹ bệnh nên ít quấy khóc, không đòi bế và cũng không bao giờ nũng nịu, vòi vĩnh đi chơi. “Thậm chí, khi tôi muốn bế, cháu còn bảo không phải bế đâu, mẹ ngã đấy”, chị Và kể.
Con trai giờ là niềm vui, động lực lớn nhất với anh chị. Mong ước lớn nhất của vợ chồng anh Vị là con lớn lên thật khỏe mạnh, trở thành người có ích. Cuộc sống còn nhiều khó khăn, anh chị vẫn đang chắt chiu và nỗ lực mỗi ngày để dành những điều tốt nhất cho con.
(vietnamnet.vn)
Bình luận
Trở thành người đầu tiên bình luận cho bài viết này!